Khi viết bài này, lời đầu
tiên tôi muốn gửi lời tạ lỗi chân thành đến những nhà văn chân chính trong xã
hội mà rất nhiều thang bậc giá trị bị đảo lộn, và cái đẹp đang chịu một số phận
mong manh trong mớ hỗn độn và u ám của những thật giả vô phương phân định, giả
dụ những điều tôi nói sẽ khiến một số người thấy rằng mình đang bị xúc phạm oan
uổng. Thực ra, với một số nhà văn tài năng, lương tâm và trách nhiệm, họ đương
nhiên được đặt ở một vị trí trang trọng trong suy tư của người viết.
Theo hình dung của nhiều
người, nhà văn, bản thân anh ta đã là một giá trị, bởi anh mang đến cho đời
sống những giá trị mà không phải bất cứ người bình thường nào cũng mang đến
được. Trên thực tế của nền văn chương nhân loại, trong đó có Việt Nam , ta thấy
quả có điều đó thật.
Những nhà văn trước đây mà
tôi được học, được đọc, phần lớn luôn để lại cho tôi một sự ngưỡng mộ thành
kính, bởi họ đã có những trang viết khiến tâm hồn người đối diện với họ được
thanh lọc bởi sự xấu hổ, bởi sự căm phẫn và lòng thương yêu họ thể hiện trong
tác phẩm của mình, và người đọc phải thẹn thùng bởi nhận ra những yếu kém của
bản thân, nhận ra sự quẩn quanh, phù phiếm và vô giá trị của cuộc sống nhẹ
bồng, vô năng và thiếu khát vọng. Những Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn
Du, Hồ Xuân Hương Cervantes, Shekpeare, Tolstoy, Dostoevsky, Camus, Marquez… là
những người như vậy.
Trong nền văn chương Việt
Nam hiện đại, những Nam Cao, Nguyên Hồng, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyễn
Công Hoan, Tản Đà, Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận… đã được vinh danh bởi họ đã sống
và viết trong cay đắng và tủi nhục, nhưng lại mang đến cho người đọc, không chỉ
một thời đại, mà nhiều thời đại tiếng nói có giá trị. Đương thời và hậu thế đọc
họ và lắng nghe họ, không phải bằng một con chữ được dùng một cách kì khu, hay
một câu văn uốn éo, mà đang đọc chính tình cảm, tâm hồn của họ. Họ dám viết về
những bất bình của cuộc đời, họ viết vì những con người đang ngập chìm trong
bóng tối của số phận. Họ viết để đòi lại cho con người những quyền cơ bản đã bị
tước đoạt. Thật lớn lao và đẹp đẽ, những nhà văn ấy, dù những nhân vật của họ
đôi khi chỉ là một người đàn bà bị cưỡng hiếp, một tên ma cà bông, một tên móc
túi, một kẻ bất lực và tha hóa…
Hoặc trong những cuộc chiến
tranh, trên tinh thần cách mạng có điểm xuất phát sâu xa là lòng tự trọng dân
tộc, rất nhiều nhà văn đã hi sinh những gì thuộc về mình, để đi cùng dân tộc,
nói tiếng nói của dân tộc, của nhân dân để làm nên một kì tích là có một thời,
các nhà văn Việt Nam đã đứng về một phía, để làm nên một đội ngũ hùng hậu, cùng
ý chí, nguyện vọng và tâm huyết. Cho dù có thể họ đã viết trong sự nhận thức
sâu sắc rằng, hậu thế sẽ đánh giá cao họ vì nhiệt thành yêu nước, mà chưa hẳn
sự nghiệp văn chương.
Nghĩa là họ đã phải gác lại
tư cách nhà văn để thực hiện những nghĩa vụ mà bất cứ một công dân biết tự
trọng nào cũng hiểu là mình phải có. Và đấy là điều khiến lịch sử không thể
quên tên tuổi họ. Khi những nhiệm vụ trọng đại đã hoàn thành, trở về với đời
sống mà văn học nghệ thuật có thể thanh thản để thực hiện thiên chức của mình
với tư cách trọn vẹn, thì những nhà văn tài năng và tỉnh táo đã sớm đưa văn học
trở về đúng vị trí của nó bằng những sáng tác mang tính khải mông, để tạo những
mầm chồi cho một sự đổi mới của văn chương, Nguyễn Minh Châu chẳng hạn, chỉ
trong mấy năm hiếm hoi còn lại của số phận, sau 1986, đã để lại những tác phẩm
mà người đọc sẽ còn găm sâu trong kí ức, và danh hiệu “người mở đường tinh anh”
chắc chắn không khiến ông phải xấu hổ. Sau đó, là nhiều nhà văn khác…
Và theo tôi biết, phần lớn
những nhà văn đó lại có một đời sống âm thầm và khiêm tốn, dẫu tên tuổi của họ,
tài năng của họ cho phép họ phớt lờ tất cả bởi họ thuộc một đẳng cấp khác, mà
theo cách nói của Hàn Mặc Tử, đấy là một “loài” khác. Có điều, nếu vậy, họ đã
không lắng nghe được hơi thở của mỗi con người mà làm nên những kì tích họ đã
từng làm được. Họ luôn ý thức được một cách đúng đắn và đầy lương tâm rằng hơn
tất cả mọi cá nhân trong xã hội, nhà văn là người có trọng trách lớn lao trước
cuộc đời, văn chương có nhiệm vụ giúp con người nhận thức được những gì thuộc
về chính con người và qua đó bồi dưỡng, vun đắp tâm hồn của họ. Cái ý của
Balzac rằng nhà văn là thư kí trung thành của thời đại dù ngày nay phải được
hiểu khác đi chút ít, nhưng nó là một chân lí. Và nhìn vào rất nhiều các tác
phẩm văn học Việt Nam ,
nhìn vào tư duy và hành động của nhiều nhà văn hiện nay thì chúng ta có quyền
nghi ngờ về vai trò “thư kí” của họ.
Bên cạnh việc nhận thức cuộc
đời và giáo dục công chúng, thậm chí, để làm được điều đó, nhà văn còn phải là
nhà tư tưởng, đôi lúc mang tính chất khai sáng; ở chỗ anh ta phải nỗ lực phát
hiện, bằng tư duy cô độc và trầy xước của mình, những điều mà một người bình
thường, không thể phát hiện được. Anh ta luôn phải tự nắm tay mình, đi trước
thiên hạ, sẵn sàng bước những bước chân rớm máu và cụng đầu vào những vách đá tư
tưởng để trở thành kẻ tiên phong trong những cảm nhận về thế giới, hoặc chí ít
cũng là trình bày được bằng tư duy hình tượng, bản chất của tồn tại, một trạng
thái nhân sinh trong những chiêm nghiệm mang tính khái quát. Vài nhà văn ở ta
hiện nay chỉ có khả năng mô tả lại một biểu hiện vụn vặt nào đó của tồn tại
nhưng lại dương dương tự đắc rằng đã làm được cái việc gọi là phản ánh hiện
thực. Đấy là một nhầm lẫn đáng mỉa mai. Và bằng những việc làm như thế, họ trở
thành một khối bất lực mênh mông về tri thức và học vấn, chỉ biết cách lẽo đẽo
mua vui cho thị hiếu tầm thường của một bộ phận công chúng nhạt nhẽo và thiển
cận. Và bằng cách đó, họ không thể nào mảy may tác động đến hiện thực dù hiện
thực bao giờ cũng rất cần những tác động từ phía nhà văn.
Tôi không phải là người cứ
bắt hôm nay phải giống ngày xưa, (có bao điều, hôm nay theo được gày xưa còn bở
hơi tai), nhưng quả thật, mỗi khi cầm cuốn sách lên hay ngồi bên bàn viết, nghĩ
đến một số nhà văn của ta hôm nay, tôi không thể không nghĩ đến những nhà văn
trong quá khứ, bởi chính những nhà văn đã khuất (hoặc số ít nhà văn đang còn
sống và viết) thật đáng để chúng ta ngưỡng mộ.
Với một nhà văn, cái gì sẽ
được người đọc đón nhận, tôn vinh và cái gì sẽ khiến tên tuổi anh ta được hậu
thế nhắc đến sau khi anh ta chết? Đấy là gì nếu không phải là tác phẩm? Mà muốn
có tác phẩm, dĩ nhiên cần có tài năng thiên bẩm, và có cả khát vọng mang đến
cho nghệ thuật một điều gì đó. Thật khó biết bao, nếu chúng ta đi tìm trên đời
này một nhà văn đủ tâm huyết và dũng cảm để ôm ấp khát vọng (dù là viển vông),
về một tác phẩm được giải nobel, mà ở đó, “nó vượt qua mọi bờ cõi và giới hạn,
nó ca tụng lòng bác ái, sự công bình, nó làm cho người gần người hơn”(1),
như chính Nam Cao đã từng gửi gắm trong nhân vật Hộ, khi cái ý thức tự trọng
nghề nghiệp đã khiến ông cảm nhận được thân phận “đời thừa” của chính mình. Có
những nhà văn sống quanh tôi, tuyệt đối, tôi biết chắc chắn rằng không bao giờ
có cái ý niệm ấy; thậm chí, họ chưa bao giờ có một quan niệm nghiêm túc, dù là
nhỏ đến mức chi tiết, về văn chương. Tôi nhìn thấy quanh nơi tôi sống, một số
người sử dụng danh hiệu nhà văn như một trang sức lòe loẹt hay một mặt nạ ngoáo
ộp để lừa mị hoặc hù dọa kẻ khác trong niềm kiêu hãnh trẻ nít và sự ngộ nhận đến
tội nghiệp. Tôi cũng nhìn thấy quanh tôi một số kẻ được gọi là nhà văn, cho
phép họ đứng trên tất cả đồng loại, trong những quần áo tóc tai dị hợm, trong
những kiểu ứng xử văng mạng, trong lối sống suy đồi và khi cần họ lấy danh
nghĩa nhà văn để bao biện; trong khi cần quan niệm sáng tạo nghệ thuật như là
một hành động giản dị nhất, trong khi chân lí nghệ thuật vốn đã không cho phép
nhà văn tự tách mình ra khỏi “sự sống khiêm nhường và phổ quát”. Làm sao có thể
có một tác phẩm văn học chân chính khi anh không chịu đứng chung với quần chúng
lao khổ, “mở hồn ra mà đón lấy những vang động của đời” (2), bởi
“văn chương bất chấp hết. Ngập trong bùn, sục tung lên, thoát thành bướm và hoa
đấy là chí thánh” (3)?
Thực tế là đang có không ít
kẻ đeo mặt nạ, hay nói giản dị hơn là mạo danh trong giới văn chương ở ta. Đấy
là những người bằng cách nào đó len vào được trong hội nhà văn, trong một phút
sơ suất, ngộ nhận của những người bình xét, hoặc một lí do nào đó mơ hồ và viển
vông. Trong số đó có những kẻ luôn luôn có một niềm kiêu hãnh ngây thơ về danh
hiệu hội viên Hội nhà văn Việt Nam, nhưng từ khi vào hội, tên tuổi của họ chỉ
xuất hiện trên tờ báo Văn nghệ, vốn
làm nhiệm vụ quảng bá tác phẩm của hội viên, khi đưa tin về cái chết của đồng
nghiệp. Là một công chức làm công ăn lương ở một Hội văn nghệ địa phương, nhiệm
vụ của họ là đến ngồi chẳng để làm gì, chỉ chăm chăm bày đủ trò kéo bè kết cánh
làm loạn tổ chức.
Cổ nhân nói rằng, trên đường
đi mỗi ngày chúng ta gặp chỉ có hai loại người: một loại người cầu danh và một
loại người cầu lợi. Không ai trách những kẻ cầu danh, những kẻ cầu lợi nếu
chúng ta coi điều vừa nói trên đây như một chân lí vốn được kiểm định bằng sự
sàng lọc nghiệt ngã của năm tháng. Nhưng điều không dễ chịu chút nào là trong
cái thế giới danh lợi bây giờ, nhà văn chúng ta cũng chẳng chịu thua kém ai.
Trong những trang hồi kí kể về những năm tháng có phần đen tối và chua chát của
Bùi Ngọc Tấn, chúng ta đã từng được biết một số nhà văn đã phải đi viết thuê để
quảng bá cho hình ảnh một đơn vị, nhằm trốn khỏi cái vạ chết đói đang hiển hiện
nhãn tiền. Đấy là những người rất cần được thông cảm bởi họ vốn sinh ra gặp phải
cái thời khốn khó, và vì vướng vào tai nạn này kia mà phải nhọc lòng muối mặt
để làm cái việc lấy ngắn nuôi dài. Theo tôi biết, phần lớn các nhà văn hiện
nay, nhất là nhà văn - công chức, đều có một cuộc sống khá ổn về vật chất, nếu
không nói là no đủ. Vậy nhưng vẫn có nhà văn nọ lẽo đẽo ôm cặp táp theo chân
một ông chủ để viết hẳn một cuốn tiểu thuyết nhằm trục lợi bằng những lời ca
tụng rẻ tiền. Đối với đồng nghiệp, những người không cho được họ gì, thậm chí
là kẻ, theo họ, là ngáng đường bởi một tội lỗi là vượt trội về tài năng và nhân
cách, họ tìm mọi cách để hãm hại mà thỏa lòng đố kị. Họ sẵn sàng nói xấu, sử
dụng đủ phương thức để “dìm hàng” đồng nghiệp, thậm chí xúi bẩy những kẻ ngây
thơ hoặc cả tin bày trò kiện cáo người này người kia để tranh cướp vị trí trong
một cuộc bầu bán, hạ bệ người ta khỏi cái ghế mà mình thèm muốn, mặc lòng cơ
quan vốn đã ưu ái thu xếp cho một chỗ để hưởng lương lẽ ra không có trong biên
chế. Tôi cũng đã chứng kiến một vài nhà văn sẵn sàng muối mặt, bán rẻ danh dự
để có một chuyến du hí với tình nhân (kiểu tình nhân mấy ngày, chẳng phải là
tình cảm cao thượng gì), để không nhận thức thêm được điều gì bởi người ấy chỉ
giắt lưng một vốn văn hóa và tư duy thấp kém, mà chỉ để tự hào, lên mặt với
những người chung quanh; khi rỗi rãi lại tung lên mạng xã hội những bài viết
còn nhan nhản lỗi ngữ pháp nhằm công kích một đồng nghiệp nào đó, vì lòng đố kị
và nỗi bất lực trước cây bút. Thế nhưng khi cần thì họ sẵn sàng làm tất cả mọi
động tác với hội viên để mua thêm cho mình một lá phiếu. Và với trò khỉ ấy,
người không tinh tế lắm cũng nhận ra ở họ lối hành xử của một con buôn lọc lõi.
Tôi cũng đã chứng kiến một vài nhà văn từng hùng hồn tuyên bố chỗ này chỗ kia
rằng sẽ khước từ giải thưởng này, giải thưởng nọ để bày tỏ lòng bi phẫn trong
tư cách của một kẻ liêm chính và tự trọng, nhưng đến ngày trao giải thì cun cút
lên giật vội tấm bằng và tiền thưởng để cun cút ra về ngay trong một điệu bộ
đến thê thảm.
Nói như Nguyễn Huy Thiệp,
văn học đương đại là một sân chơi ngày càng chuyên nghiệp và nghiệt ngã(4).
Cuộc chơi ấy không chấp nhận kẻ thụ động, ít học và thiếu nhạy cảm. Để tồn tại
và vượt lên trong cuộc chơi ấy, nhà văn (và những ai còn muốn ghi danh vào hội
nhà văn trong tinh thần không cảm thấy xấu hổ) cần phải suy nghĩ nhiều hơn. Cần
phải thức tỉnh một điều, chỗ mà các anh chơi hôm nay không còn là sân chơi của
mấy chục năm trước, nơi mà các nhà văn cứ viết ra một điều gì đó để minh họa
cho một chủ trương, một nhiệm vụ và sống một cách dựa dẫm vào đồng lương nhà
nước và khoản nhuận bút ưu đãi như một món hời. Trong sân chơi của ngày hôm
nay, nhà nước có thể vẫn trả lương cho anh, nhưng đấy là những đồng lương trích
ra từ nguồn thuế của nhân dân để trả cho sự lao động của anh trong vai trò một
công chức, viên chức - dù là công chức công tác ở một cơ quan văn nghệ. Không
phải anh có danh hiệu nhà văn, làm công chức ở đấy thì anh hiển nhiên tồn tại
với tư cách nhà văn. Tư cách nhà văn của anh cũng không được thừa nhận bằng
những tuyên ngôn rỗng tuếch hay bằng những đau thương giả vờ, càng không được
thừa nhận từ những trò đấu đá, hạ bệ hay làm tiền một cách vô sỉ trong một vốn
tri thức nông cạn. Tư cách nhà văn của anh chỉ có thể được thẩm định bằng những
suy tư có tính chất khai sáng hoặc sự đồng cảm đối với con người trong ý nghĩa
phổ quát nhất, bằng sự sẻ chia thống thiết trước những bấp bênh của số phận con
người - những số phận đang tắm trong máu me của chiến tranh, rên xiết ở các
trại tị nạn; những con người bị chết đói bởi đồng lương rẻ rúng hoặc nạn nhân
của bạo hành; những con người đang bế tắc trong những rào chắn hay cạm bẫy.
Vinh, cuối Nhâm thìn, đầu 2013
(1) Nam Cao, Đời thừa
(2) Nam Cao, Trăng sáng
(3) Nguyễn Huy Thiệp, Giọt máu
(4) Nguyễn Huy Thiệp, Trò chuyện với Hoa Thủy Tiên về sự nhầm lẫn
của nhà văn